Lược sử hãng đồng hồ SEIKO – Một cuộc hành trình vĩ đại (Bài 1)
CHƯƠNG 1 : NỀN TẢNG TẠO RA TỪ MỘT KHỞI ĐẦU KHIÊM TỐN
Rất ít người trong thế giới phương tây ngày nay biết đến sự phát triển của đồng hồ nhật bản, và sự thành công đáng chú ý của họ trong ngành công nghiệp này trong 50 năm qua thật sự là một vẻ quyến rũ bí ẩn. Và ở trung tâm của mọi câu chuyện thành công của thời hiện đại này, seiko một thương hiệu vĩ đại và họ còn mang nợ rất nhiều đối với 3 thế hệ trong một gia đình – Hattori ( là người sáng lập ra seiko)
NGUỒN SÁNG TỪ TINH THẦN SÁNG TẠO
Sự sáng tạo đã giúp người nhật đạt được nhiều thành công trên thế giới với những chiếc đồng hồ của mình. Và để xây dựng nên một trong những công ti quan trọng nhất trên thế giới về lãnh vực này, không thể không kể đến công lao của những nhà chế tạo đồng hồ từ thời trước đó.
Những chiếc đồng hồ đầu tiên của nước nhật mang nợ rất nhiều từ sự khéo léo của bàn tay người trung hoa. Đồng hồ nước là một trong những hình thức đong đếm thời gian đầu tiên, được sử dụng tại trung quốc trong thiên niên kỉ đầu tiên sau công nguyên. Tại nhât bản, sự xuất hiện của phật giáo vào giữa những năm 500 cùng với sự cai trị của thời đại yamato đã đặt ra yêu cầu về sản xuất đồng hồ nước cho nhật bản thời đó. Chính quyền nhật bản đã tự thiết kế lại các bản mẫu lấy từ nhà đường của trung hoa cổ do khổng tử giới thiệu lần đầu. đến năm 671 sau công nguyên, nước nhật đã tạo ra được đồng hồ nước đầu tiên vào triều đại của hoàng đế tenchi.
Tại trung quốc, một học giá có tên là Tô tụng đã có một bước đột phá tiên phong khi ông đã chế tạo thành công chiếc đồng hồ “cosmic engine” vào năm 1090, có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đây là chiếc đồng hồ đầu tiên trong lịch sử sử dụng bộ thoát escapement ( các thím cũng lưu ý cho là đồng hồ cơ khí có cái nôi ở trung hoa, ở trước thời tô tụng đến mấy trăm năm trước, thì đồng hồ cơ khí đã có từ năm 725, rất lâu trước khi nó xuất hiện ở châu âu) . Sau bước tiến vĩ đại này, thì dường như nghệ thuật chế tạo đồng hồ cơ học phức tạp đã bị biến mất khỏi khu vực đông á cho đến khi nó xuất hiện trở lại, nhưng là từ con đường nhập khẩu từ bên châu âu.
Vào cuối những năm 1100, gia đình edo thuộc một nhánh của gia tộc taira đã thành lập một làng chài, sau này phát triển thành một đô thị rộng lớn có tên là tokyo, với dân số hiện nay đến hàng chục triệu người. Khoảng 150 năm sau khi ngôi làng được thành lập, chiếc đồng hồ quả lắc đầu tiên đã được tạo ra ở châu âu . Trấu trúc bằng sắt kềnh càng cũng chỉ đủ để làm quay một chiếc kim chỉ giờ, nhưng nó đánh dấu cho việc xem giờ như chúng ta đã biết ngày nay .tại nuremburg, dây tóc đã được bổ sung vào đồng hồ cơ học vào năm 1400 khiến cho việc chế tạo đồng hồ treo tường trở nên khả thi hơn. Khi kĩ thuật sản xuất ngày càng tiên tiến, các thành phần càng ngày được chế tạo nhỏ lại với mức độ chính xác cao, và chiếc đồng hồ có thể bỏ vào túi lần đầu tiên đã không còn là giấc mơ .
Từ năm 1500, đức và anh quốc nổi lên trở thành những trung tâm sản xuất đồng hồ chính của thế giới, và trong 100 năm tới pháp cũng đã phát triển ngành công nghiệp đồng hồ. Vào giữa thế kỉ 16, việc sản xuất đồng hồ bắt đầu ở geneva, khi đạo luật do jean calvin ban hành cấm đeo đồ trang sức, và buộc các thợ kim hoàn, thợ thủ công chuyển sang một loại nghề thủ công mới. Vào thời điểm đó, tất cả đồng hồ được sản xuất đều là đồng hồ bỏ túi, đồng hồ đeo tay chưa được sản xuất ra với quy mô lớn do các hạn chế về mặt kĩ thuật chưa cho phép tạo ra những thành phần linh kiện nhỏ với độ chính xác cao. Trong khi ở châu âu đang có sự phát triển như vũ bão, thì ở nước nhật đang bị cai trị bởi thời đại của các samurai thời phong kiến từ 1100 đến 1300, và tiếp sau đó là hai thế kỉ của các cuộc chiến tranh triền miên giữa các lãnh chúa quân phiệt cùng với samurai. Trong thời kì hỗn loạn này, nhật bản đạt được rất ít tiến bộ về mặt công nghệ, mặc dù các kĩ nghệ văn hoá truyền thống đã bắt đầu phát triển hưng thịnh như trà đạo và vẽ tranh.
Năm 1549, một nhà truyền giáo phương tây ( bồ đào nha) tên là francisco de xavier, đã phát hiện ra nhật bản, và đến năm 1551, ông đã tặng cho lãnh chúa ouchi yoshitaka một chiếc đồng hồ cơ khí , đó là chiếc đầu tiên xuất hiện tại nước nhật. Ngay sau khi giới thiệu chiếc đồng hồ cơ khí đầu tiên tới nhật bản, xavier quay trở về thăm đức giáo hoàng tại rome, sau đó ông quay trở lại với một chiếc đồng hồ dành cho một lãnh chúa khác, rất nổi tiếng là hideyoshi toyotomi.
Vào khoảng năm 1600, một trường dạy nghề kết hợp truyền giáo đã được một nhà truyền giáo cơ đốc thành lập tại tỉnh nagasaki. Nó dạy cho học sinh cách chế tạo đồng hồ, các cơ quan và các thiết bị thiên văn học. Thời điểm đó là gần 100 năm trước khi daniel jean richard thiết lập nên nền công nghiệp chế tạo đồng hồ ở le locle, thuỵ sĩ. Đến năm 1617 , sau khi nước nhật thống nhất, đã xảy ra cuộc đàn áp các nhà truyền giáo cơ đốc. Đến 1635 thì nhật bản bắt đầu bế quan toả cảng trước các ảnh hưởng đến từ nước ngoài, dân nhật cũng bị cấm không được đi biển, và hầu hết việc giao thương với nước ngoài bị chấm dứt vào năm 1639. Khi đất nước trở nên bị cô lập hơn, thì đồng hồ đã phát triển mạnh ở nhât bản trong vòng 300 năm tới, thành edo đã trở thành trung tâm của ngành công nghiệp đồng hồ của đất nước, và có nhiều bậc thầy đã xuất hiện, như sukezaemon tsuda, hay những chiếc đồng hồ của wadokei đã được làm hoàn toàn khác biệt với phần còn lại của thế giới, những chiếc đồng hồ đã được sử dụng trực tiếp phục vụ cho các mạc chúa thời đại edo (1603-1868)
KỈ NGUYÊN EDO
Đồng hồ wadokei là một hệ thống tính thời gian phức tạp của nước nhật thời này, nó sử dụng âm lịch, mỗi ngày đều được chia thành ban ngày và ban đêm, tính từ khi bình minh và hoàng hôn , và mỗi giai đoạn này lại chia thành 6 kì. Vì chiều dài của ngày và đêm thay đổi suốt cả năm nên chiều dài của mỗi kì cũng thay đổi, ngoại trừ thời gian điểm phân ( equinoxes). Chiếc đồng hồ wadokei có chứa đủ những tính năng để có thể báo hiệu các biến đổi qua từng ngày, các phiên bản sau này thậm chí có cả hệ thống chuông cơ khí và báo thức. Để đối phó với sư khác nhau giữa ban ngày và ban đêm, mỗi đồng hồ có chứa 2 bộ thoát là verge và foliot escapements. Một cái dành cho ban ngày, và một cái dành cho ban đêm. Đây là một sự phức tạp ra trò đối với nhiều nhà chế tác đồng hồ trên thế giới vào thời điểm đó.
Trong số những chiếc đồng hồ của nhật bản được sản xuất vào thời kỉ nguyên edo, có yagura dokei, chiếc đồng hồ đặt trên một cái bệ cao thẳng đứng cho phù hợp với con lắc, shaku dokei, chiếc đồng hồ treo tường có khả năng điều chỉnh từ phía dưới ( con này dài vãi) , thời gian đọc ở trên mặt con lắc. Và chiếc makura dokei, đồng hồ chạy bằng lò xo được đặt trên kệ hoặc tủ. Đặc biệt, chiếc đồng hồ yagura dokei kể ở trên đã đạt tới cảnh giới rất cao của sự tinh tế , với nhiều chức năng rất phức tạp bao gồm hệ thống đánh chuông, báo thức, lịch.
Ngành công nghiệp sản xuất đồng hồ wadokei phát triển trong suốt thời kì edo, nhưng nó đột nhiên trở nên lỗi thời vào những năm 1872 , khi nội các minh trị thông qua hệ thống lịch mặt trời thay cho hê thống âm lịch ( hay còn goi là dương lịch) đã được sử dụng trong suốt thời kì edo. Hệ thống tính thời gian cũ ở nước nhật đến hồi chấm dứt, những chiếc đồng hồ wadokei của các nhà chế tác đồng hồ nhật bản không được ai sử dụng nữa, và tại nhật thời điểm đó cũng không có một ai có kinh nghiệm trong việc chế tạo ra những chiếc đồng hồ sử dụng hệ thống tính giờ mới. Nước nhật bước vào một thời kì mới cho việc lưu giữ thời gian, ban đầu, đồng hồ được nhập khẩu từ phương tây, đặc biệt là mĩ và châu âu. Ngay sau đó, những công nghệ được giới thiệu từ tây phương đã giúp đắc lực cho việc tạo ra một ngành công nghiệp kì diệu mới mẻ cho nhật bản, ngay khi đất nước này được hợp thức hoá việc sử dung dương lịch, và ngành công nghiệp này được bắt đầu tại tokyo vào năm 1875 với việc sản xuất loại đồng hồ treo tường có tên là bobon dokei.
Kintaro hattori, người đã bắt đầu dich vụ sửa chữa đồng hồ vào năm 1877 tại nhà của ông ở quận ginza, đã đặt nền móng cho công cuộc chế tạo đồng hồ hiện đại tại nhật bản. Thời điểm này là năm thứ 10 của kỉ nguyên minh trị, đánh dấu một bước khởi đầu khiêm tốn của sự nghiệp của người đàn ông được mệnh danh là “ông vua thời gian “. Năm 1881, ở độ tuổi 22, ông chính thức thành lập nên K Hattori, một công ti buôn bán và sửa chữa đồng hồ cũ, và công ti của ông đã nhanh chóng phát triển và trở thành một trong những công ti buôn bán đồng hồ quan trọng ở thời đó.
Vào năm 1892, kintaro hattori đã mua một nhà máy bỏ không ở tokyo và thành lập seikosha ( trong tiếng nhật, seiko có nghĩa là tinh tế, phút hoặc sự thành công, còn sha có nghĩa là ngôi nhà) . Chính tại nơi đây, hattori đã sản xuất ra chiếc đồng hồ đầu tiên của mình, và đây là khởi đầu của một công ti mà sau này sẽ trở thành một trong những nhà sản xuất đồng hồ quan trong nhất trên thế giới. Khởi đầu bằng đồng hồ treo tường, rồi đến đồng hồ bỏ túi và đồng hồ đeo tay .trong thời kì đẩu của kỉ nguyên showa ( 1927-1934) , những chiếc đồng hồ bỏ túi được gọi là seikosha, trong khi đồng hồ đeo tay được gọi với cái tên là seiko. Sự thăng hoa của một thiên tài đã đặt nền móng cho tổng công ti seiko ngày nay, kể từ sau cái chết của ông vào năm 1934, con cháu của ông đã chứng tỏ được kĩ năng sáng tạo, sự đổi mới và nhạy bén trong kinh doanh đã giúp cho seiko được biết đến như một nhà sản xuất đồng hồ lớn nhất thế giới
TẦM NHÌN
Trong những năm 1960, seiko đã chứng minh rằng những chiếc đồng hồ cơ khí của họ hoàn toàn phù hơp cho một số cuộc thử nghiệm độc lập được tiến hành tại thuỵ sĩ. Mọi thứ đều bắt đầu từ hattori, ông đã có tầm nhìn xa để ghi nhận sự quan trọng về sự thành công trong các cuộc thi này , ông luôn thúc giục các kĩ thuật viên của mình ” hãy làm đi “, và thành công từ các cuộc cạnh tranh khốc liệt đã làm tăng thêm danh tiếng cho các sản phẩm đồng hồ cơ khí của seiko.
Vào những năm 1970, nhu cầu về đồng hồ cơ học giảm dần khi đồng hồ thạch anh chiếm ưu thế trên thị trường, và seiko cuối cùng đã phải cắt giảm một sản lượng đáng kể loại đồng hồ này. Tuy nhiên, tới những năm 1980, những người đam mê đồng hồ của nhật bản đã lại khám phá ra những phẩm chất đáng quý của đồng hồ cơ khí ( cả thế giới chứ chả riêng gì ông nhật) .những chiếc đồng hồ chronometer seiko lại được tái sinh vào năm 1998 ( đang nói về grand seiko) . Ngày nay, nhu cầu về đồng hồ cơ khí cao cấp của seiko ở nội địa nhật là rất lớn, từ năm 1998 việc sản xuất đồng hồ cơ khí phức tạp đã rất được seiko coi trọng,và công ti tin rằng, với tất cả những gì mình có, thì một lần nữa, sản phẩm tốt nhất của hãng sẽ phù hợp để cạnh tranh với một số hãng đồng hồ thuỵ sĩ tốt nhất. Vào những năm 60, đã có thời các kĩ thuật viên của nhật bản và thuỵ sĩ đua nhau sản xuất ra những chiếc đồng hồ thạch anh thương mại đầu tiên. CEH, trung tâm nghiên cứu của thuỵ sĩ, và bên kia là bộ phận phát triển của seiko. Đã tạo ra những bước đôt phá đặc biệt, vượt qua những thách thức khổng lồ để sản xuất ra những chiếc đồng hồ thạch anh đầu tiên của thế giới. ( thực tế thì cuộc cạnh tranh này người thuỵ sĩ đã thua một cách thảm hại)
MỘT NĂM CHO HẠN CHÓT (vẫn đang nói về cuộc chiến thạch anh)
Các kĩ thuật viên của seiko đã nhận thấy những khó khăn vô bờ khi phải vượt qua những rào cản cuối cùng, khi shoji hattori, chủ tịch của hattori seiko hết kiên nhẫn và ra lệnh phải có được sản phẩm để bán trong vòng 1 năm nữa bằng mọi giá ( đồng hồ quartz) . Để thực hiện lời tuyên bố của ông, mọi nguồn lực của công ti đã được huy động, và cuối cùng seiko đã thành công. Vào ngày 25 tháng 12 năm 1969, chiếc đồng hồ đeo tay thạch anh đã được giới thiệu ra toàn thế giới. Điều này đã đem lại một lợi thế thương mại vô cùng to lớn so với đối thủ thuỵ sĩ. Đồng hồ thach anh của seiko khi đó có chi phí bằng cả một chiếc ô tô của toyota
hãng seiko xuất khẩu đồng hồ từ 1965 với doanh số chỉ 1,6 triệu chiếc, con số này tăng vọt lên 4,9 triệu chiếc vào năm 1969 và đến năm 1977 đã đạt đến con số ấn tượng 11,8 triệu. Cho tới năm 2001, seiko sản xuất ra khoảng 21 triệu chiếc đồng hồ. Xét về mặt lịch sử, các ngành công nghiệp đồng hồ tại nhật bản và thuy sĩ đã phát triển theo các cấu trúc khác nhau, và điều này cuối cùng đã tạo nên sự thành công vượt trội của seiko khi thế giới bước vào kỉ nguyên đồng hồ thạch anh.
Ngành công nghiệp chế tạo đồng hồ của thuỵ sĩ phát triển giống như một hệ thống tiểu thủ công nghiệp khổng lồ , được sản xuất với hàng ngàn công ti thành phần đặc biệt khi công nghệ thạch anh lần đầu tiên nổi lên, seiko đã phải đối mặt với một quyết định quan trọng. Reijino hattori, chủ tịch danh dự của tập đoàn seiko đã giải thích ” chúng ta đang nói về việc mua thép ở đâu cho ( việc chế tạo) dây tóc cân bằng, và sau đó tự xây dựng nhà máy để sản xuất chúng. Khi chúng ta bước bàn chân vào thời đại thạch anh, chúng ta đang nói về những việc cần phải làm trong các nhà máy bán dẫn , và về thực tế ( những thứ kể ở trên) nó không đủ để sản xuất ra chất bán dẫn. Tại sao lại không chế tạo ra các máy thạch anh với màn hình tinh thể lỏng? ( LCD – liquid crystal displays) “
Seiko đã tự sản xuất ra hầu hết các bộ phận cho chiếc đồng hồ của mình, bao gồm movement, including , vỏ và mặt số bởi các công ti con trong group. Vào thời điểm này, việc sản xuất của thuỵ sĩ thường bị hạn chế bởi sự thiếu hụt các thành phần ( của đồng hồ) từ các công ti độc lập khác nhau, seiko đã tạo ra được một sự kiểm soát đối với hoạt động sản xuất, vì hầu hết mọi thành phần đều được chế tạo inhouse. Cách tiếp cận mang tính tích hợp của hãng cũng tạo điều kiện phát triển dây chuyền sản xuất và lắp ráp có tính tự động cao, có thể hoạt động 24 giờ một ngày. Khi việc sản xuất đồng hồ thạch anh được mở rộng nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu trên khắp thế giới, các nhà sản xuất nhật bản đã sớm trở nên nổi bật hơn, và phần lớn thành công của họ là kết quả của phương pháp tiếp cận tích cực từ nhà chế tạo đồng hồ đầu tiên, kintaro hattori bắt đầu vào những năm đầu thế kỉ 20.
ĐẦU TƯ VÀO NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN ( R&D)
Dù đã đạt được những thành công vang dội với sản phẩm đồng hồ thạch anh, seiko vẫn tiếp tục đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, và phần lớn công việc của nó dành cho việc phát triển hệ thống bấm giờ chuyên nghiệp thế hệ kế tiếp, hệ thống auto-quartz ( tự động thạch anh) không phải thay pin ( đang nói đến dòng kinetic) . Vào năm 1973, họ đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế đầu tiên cho công nghệ mới này, nhưng tới năm 1988 chiếc đồng hồ auto – quartz ( tên gọi chung của dòng này, seiko gọi riêng là kinetic) đầu tiên mới được seiko phát hành ( chính xác là vào tháng 1-1988 tại đức và tháng 4 – 1988 tại nhật bản)
Các movement thạch anh đại diện cho một cuộc cách mạng về tính chính xác, đồng hồ thạch anh kĩ thuật số ( lcd) đánh dấu một cuộc cách mạng về công nghệ hiển thị và hệ thống đồng hồ thạch anh tự động ( nguyên văn là automatic generating system – chính là seiko AGS đó) , mà cuối cùng được hãng seiko đặt với cái tên là kinetic , đó là nguồn năng lượng mang tính cách mạng trong việc ghi lại thời gian. Bước tiến to lớn này đánh dấu sự khởi đầu cho kỉ nguyên mới của seiko về trách nhiệm với cộng đồng xã hội. Tạo ra những sản phẩm thân thiện với thế giới chúng ta đang sống. Quan điểm mới này không chỉ giới hạn trong việc sản xuất các sản phẩm thân thiện với môi trường mà nó còn mở rộng đến các nhà máy và văn phòng của công ti. Và công ti đã giành được giải thưởng cho những nỗ lực sau đó cho việc giảm tiêu thụ năng lượng và xử lí vẫn đề môi trường trong các nhà máy của mình.
Công nghệ thạch anh dẫn trực tiếp tới một sự phát triển khác cũng có ý nghĩa rất to lớn của seiko. Năm 1964, seiko giữ vị trí chính thức tại thế vận hội olympic tokyo, và “cách mạng hoá ” việc bấm giờ thể thao bằng cách trở thành công ti đầu tiên trên thế giới sử dụng đồng hồ thạch anh trong một sự kiện thể thao tầm cỡ lớn. Kể từ đó, seiko đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tính giờ các môn thể thao quan trọng trên toàn thế giới. Với sự chuyên nghiệp và thành thạo của mình, đã giúp hãng nâng cao uy tín về độ tin cậy cũng như tính chính xác. thời điểm sau năm 1972, seiko đã là một trong 2 công ti duy nhất đã tham gia các sự kiện thể thao quốc tế đa dạng, mặc dù đầu tư khổng lồ vào công nghệ và nhân lực là cần thiết để có thể tham gia thành công vào những sự kiện này, seiko lại không nhận được sự hỗ trợ nào về tiền mặt trong hầu hết các trường hợp. Đây là một ví dụ khác của công ti nhằm thực hiện một nỗ lực có ý thức để đưa một cái gì đó vào xã hội và làm cho thế giới trở thành một nơi tốt hơn để sống.
Là một phần trong gói công nghệ mới được phát triển bởi seiko trong thời điểm diễn ra thế vận hội, nhóm phát triển công nghệ máy in đã in ra các kết quả từ các thiết bị bấm giờ chuyên nghiệp, điều này cuối cùng đã dẫn đến sự phát triển của một công ti mà hiện nay được biết đến trên toàn thế giới về sự xuất sắc của những sản phẩm máy in, cùng với các máy in hình ảnh khác, đó chính là Epson. Cái tên Epson có nguồn gốc từ máy in điện tử “son of EP”- Electric printer.
sự thành công của seiko trong 30 năm vừa qua không chỉ dựa vào sự đổi mới kĩ thuật và sự nhạy bén trong kinh doanh, mà công ti đã phải rất chú trọng đến tầm quan trọng trong khâu thiết kế. Nhà thiết kế của họ đã dành hai giải kim cương cho international awards , giải thưởng quốc tế danh giá đánh dấu đỉnh cao trong kĩ năng thiết kế đồ trang sức. Seiko có đội ngũ thiết kế lớn mạnh tại nhiều nơi trên thế giới, cũng như có sự phối hợp với một số nhà thiết kế thành công nhất thế giới.
Khi kintaro hattori mở nhà máy đồng hồ treo tường đầu tiên vào năm 1892, 15 nhân viên của ông đã sản xuất ra 70 chiếc đồng hồ trong 6 tháng đầu, đến năm 1897, công ti seikosha của ông đã trở thành nhà sản xuất đồng hồ treo tường lớn nhất nhật bản, trong nửa sau của thế kỉ 20, seiko đã đạt tới và đứng ở vị trí hàng đầu cho việc sản xuất đồng hồ bằng công nghệ tiên tiến, và phát triển các kĩ thuật sản xuất mới. Các sản phẩm đồng hồ thạch anh đầu tiên của seiko cùng với sự ra đời của công nghệ kinetic đã đóng một vai trò quan trọng trong việc đưa seiko trở thành một người chơi chính trên sân khấu của thế giới. Vào những ngày đầu của thế kỉ 21, thị trường thế giới đang biến đổi rất nhanh chóng, việc những chiếc đồng hồ giá rẻ được sản xuất ồ ạt từ trung hoa và đông nam á đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến các công ti đồng hồ truyền thống. Tập đoàn seiko đã thích ứng bằng cách tái cơ cấu phân khúc đồng hồ và tạo ra một tầm nhìn mới cho tương lai, như là bước đầu tiên hướng tới việc đối mặt với thách thức to lớn này.
Vào năm 1881, tầm nhìn của kintaro hattori đã tạo dựng thành công cho tương lai, ngày nay, tầm nhìn của công ti được hợp lại bởi nhiệm vụ cam go của nó cho sự đổi mới và tinh tế. Với sự đầu tư đáng kể liên tục trong nghiên cứu và phát triển, cũng như về thiết kế, tiếp thị và quảng cáo, hãng có vẻ sẽ duy trì được vị trí thống lĩnh trên thị trường toàn cầu trong thế kỉ 21.
HẾT CHƯƠNG 1.
LỜI THẰNG DỊCH : vâng thưa các thím, như vậy là sau một thời gian chăm chỉ,với đến tận bài thứ 3 thì chương 1 cũng đã kết thúc, và cuốn sách này còn tới…12 chương lận! Quả là một sự khó khăn vô vàn cần phải vượt qua! Tất nhiên, với suy nghĩ của thạch, đó là đem lại kiến thức chân chính tới cho mọi người, thì dù mệt mỏi cách mấy cũng phải thực hiện, leo núi rất mệt, rất khó nhưng nếu không dám leo thì sẽ chẳng bao giờ có thể lên tới đỉnh. Có vài người hỏi tại sao lại mất công dịch đến thế? Đơn giản là, một quốc gia muốn có được sự phát triển thì cần phải trải lòng ra mà tiếp nạp những thông tin kiến thức từ những quốc gia, việc dịch thuật biên dịch kiến thức với một ý niệm kiệm trong sáng vô vụ lợi chắc chắn sẽ đem lại nhiều thành quả tuyêt vời , ở trên đất nước việt nam này có nhiều người như thế đang âm thầm hoạt động, tôi ngưỡng mộ họ và đang làm theo họ, và đây cũng chính là cái cách đã đưa nước nhật trở nên hùng cường trong thời gian rất ngắn , từ những kẻ chân đất mắt toét như người nông dân việt nam, họ tự mày mò dịch và truyền bá những kiến thức từ bên ngoài mà ko hề chờ đợi từ nhà nước hay kẻ dịch giả có trình nhưng thiếu tâm khác , và vài chục năm sau họ biến thành những kẻ tri thức thật sự, vả vào mồm mấy tên tây phương một thời chế nhạo ” những co khỉ nhật bản chỉ biết bắt chước! ” . Lan man tí chút thôi, việc dịch thuật rất mệt và cần sự cảm thông chia sẻ từ cộng đồng để có động lực, rất mong anh em cho vài ngàn like lẻ ( ko lấy chẵn nha các bố) để bài dịch thâm phần hứng thú. Chúc mọi người vui vẻ!
CHƯƠNG 2 : ĐỔI MỚI VÀ CHỌN LỌC
Khi thế kỉ 21 đang tới, thị trường đồng hồ trên thế giới đã đem tới những thông tin mạnh mẽ, đưa ra các câu hỏi về sự hợp tác giữa các ngành công nghiệp với nhau. Để đáp lại, tập đoàn seiko đã có một sự thay đổi quan trọng, cơ cấu đã được thiết kế lại cho phép bộ phận sản xuất đồng hồ phát huy được mọi tiềm năng, đồng thời tận dụng những thay đổi này để thành lập nên công ty đồng hồ seiko.
CHỖ ĐỨNG CỦA SEIKO TRONG LỊCH SỬ
Đây là một doanh nghiệp gia đình có liên quan đến 3 thế hệ của gia đình nhà hattori, dưới sự dìu dắt họ đã đạt tới sự thịnh vượng trong hơn 120 năm. Dưới sự lãnh đạo của chủ tịch danh dự, ông reijino hattory, cháu của người sáng lập, kintaro hattori, ông gần đây đã nghiên cứu cách thức tốt nhất để có thể đáp ứng được thách thức của thế kỉ 21 với một tầm nhìn, triết lí và cấu trúc mới. Trong kỉ nguyên đầu tiên của seiko, họ đã đi tiên phong trong việc cho ra đời các nhà máy mới và sản xuất các loại đồng hồ khác nhau tại đất nước nhật bản. Kỉ nguyên thứ 2 bắt đầu vào nửa sau thế kỉ 20 khi công ti bắt đầu mở rộng sang các thị trường xuất khẩu quan trọng. Kỉ nguyên thứ 3 bắt đầu với sự bùng nổ về doanh thu và sản xuất sau khi công ti khai thác dòng sản phẩm thạch anh đầu tiên của thế giới vào năm 1969. Kỉ nguyên thứ 4 cho thấy công ti mở rộng danh mục thương hiệu, tao ra một mạng lưới các công ti hỗ trợ toàn cầu và đảm nhiệm sự lãnh đạo toàn cầu về kĩ thuật đồng hồ. Và ngày hôm nay, họ cũng đang bắt đầu một kỉ nguyên mới khác.
Vào những năm thập niên 1950, 1960 , thuỵ sĩ dường như không có khả năng công bố ra những sản phẩm tương tự ( đang nói đến tính tiên phong) , nhưng điều đó lại chứng tỏ điều ngược lại ở seiko, không có trở ngại gì đối với các kĩ thuật viên, nhân viên thiết kế và bán hàng của seiko. Trong những năm 60, họ đã bắt đầu xuất khẩu đồng hồ cơ khí với một số thành công và sau đó họ làm kinh ngạc thế giới đồng hồ bằng cách đạt được những thành công lớn trong các cuộc thử nghiệm đồng hồ độc lập, được tổ chức tại thuỵ sĩ.
Khi seiko trở thành người dẫn dắt thế giới trong việc giới thiệu chiếc đồng hồ thạch anh vào năm 1969 và đi tiên phong trong việc sản xuất hàng loạt cũng như tự động hoá việc sản xuất trong những năm 1970, họ đã có một lợi thế rất lớn so với đối thủ thuỵ sĩ. Kể từ những ngày đầu sản xuất đồng hồ và sau chuyến thăm nước mĩ cuối những năm của thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, kintaro hattori và những người kế nhiệm ông đã tin tưởng đầu tư và hội nhập theo chiều dọc. Đến cuối những năm 1960, các dây chuyền sản xuất tự động hoá cao độ của seiko có thể sắp xếp và lắp ráp tất cả các bộ phận của một chiếc đồng hồ , kèn theo việc kiểm tra và điều chỉnh chúng mà không cần sự can thiệp của con người. Và công việc điều chỉnh hệ thống tự động hoá này cũng tương đối dễ dàng cho việc lắp ráp đồng hồ thạch anh
Ngành công nghiệp đồng hồ của thuỵ sĩ đã phát triển theo những con đường khác nhau, với cấu trúc theo chiều ngang không cho phép áp dụng công nghệ mới nhất cho đồng hồ thạch anh. Hàng ngàn công ti chuyên sản xuất các bộ phận riêng lẻ hoặc lắp ráp các bộ phận cụ thể của mỗi chiếc đồng hồ. Chẳng hạn như để làm ra bộ thoát cho một chiếc đồng hồ cơ khí, cơ cấu ngành công nghiệp tại thuỵ sĩ không cho vay mượn để sản xuất hàng loạt hoặc xây dựng hệ thống dây chuyền sản xuất tự động ( ý là mọi thứ ko thể xuất hiện trong cùng một công ti) điều này đẩy thuỵ sĩ vào chỗ bất lợi, thật khó để có thể tổ chức các bộ phận sản xuất vào đúng nơi, vào đúng thời điểm để tạo điều kiên cho việc sản xuất hàng loạt. Ngành công nghiệp đồng hồ thuỵ sĩ cần phải tổ chức lại cơ sở để thích ứng với việc sản xuất đồng hồ thạch anh. Trong khi đó ở nhật bản, việc tích hợp theo chiều dọc của seiko cho phép các dây chuyền sản xuất được nhanh chóng thích nghi với công nghệ mới và sớm trở thành những nhà lãnh đạo thế giới trong công nghệ sản xuất.
Khi thế giới bước vào thế kỉ 21, một thay đổi lớn đã bắt đầu biến đổi ngành công nghiệp đồng hồ thế giới. Đông nam á trở thành nhà sản xuất đồng hồ rẻ tiền và quy mô ở mức bán lẻ. Điều này đã được thúc đẩy bởi môt hiện tượng mới. Nhiều nhãn hiệu mới xuất hiện trên thị trường cùng với sự đa dạng của các nhà cung cấp mới. Hầu như bất cứ ai cũng có thể sản xuất đồng hồ và khởi động một thương hiệu mới mẻ. Không giống như các công ti trước đây, vốn có cái tên đã trở nên nổi tiếng trên thế giới về việc sản xuất đồng hồ. Các công ti mới này đang kinh doanh tiếp thị theo vị trí thích hợp. Họ xác định mục tiêu cẩn thận và nhắm đến một lượng người tiêu dùng nhỏ trong thị trường và bán rất thành công cho nhóm người này. Họ không quan tâm đến thị trường rộng lớn của đồng hồ, thay vào đó họ yêu cầu các nhà sản xuất có thể giao hàng đúng hẹn và đúng với những gì đã quảng cáo.
Hơn bao giờ hết, hệ thống tiếp thị kiểu mới này đem “bán” những hình ảnh .chất lượng và thông số kĩ thuật của nhiều sản phẩm kiểu này chỉ thuộc hạng 2, nhiều thương hiệu được thành lập lần đầu tiên với tên của chính mình như đã áp dụng thành công trong các lĩnh vực khác. “Sự thành đạt”, “sự giàu có ” hay ” thời trang thể thao” đã được các công ti mới này áp dụng rất thành công cho việc tiếp thị và bán đồng hồ.
Khi đối mặt với cuộc tấn công này, và khi ngành công nghiệp đồng hồ của thuỵ sĩ đang phục hồi và trên đà phát triển lại. Tốc độ tăng trưởng phi thường của seiko chậm lại và trong thế giới của những thương hiệu đồng hồ mới, cấu trúc công ti đã không thể đáp ứng nhanh chóng với những thay đổi trên thị trường và cần phải có những thiết kế mới. Nhiều thứ đã trở nên già cỗi và khó sử dụng.Đã đến lúc cần phải có sự đổi thay, như xuyên suốt trong lịch sử seiko, cảm hứng cho sự thay đổi đến từ tầm nhìn kể từ những ngày đầu tiên, những thách thức đến từ tương lai.
DẤU MỐC CỦA SEIKO
Năm 2001 đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử của công ti, khi seiko watch corporation ( SWC) được thành lập. Cuối cùng, bộ phận giám sát đã trở thành một đơn vị độc lập chịu trách nhiệm về số phận của mình. Cho đến khi SWC được thành lập, bộ phận giám sát đã hoạt động như một phần của tập đoàn seiko, còn bây giờ, SWC mới đã gia nhập vào hoạt động của hơn 10 công ti khác dưới sự quản lí của công ti mẹ. Giống như rất nhiều sự thay đổi cơ bản trong lịch sử seiko, quyết định quan trọng này được đưa ra bởi môt thành viên của gia đình hattori – reijiro hattori, chủ tịch của seiko , thế hệ thứ 3 điều hành việc kinh doanh. Quyết định của ông đưa ra với mục đích tạo ra sự thay đổi quan trọng, đưa các bộ phận sản xuất đồng hồ thành các đơn vị có tính độc lập cao hơn, đem lại cho họ một sự tự ý thức về số phận của chính họ.
tsutomu mitome được bổ nhiệm làm chủ tịch đầu tiên của seiko watch corporation , cho đến khi được bổ nhiện, ông là chủ tịch tập đoàn seiko của mĩ và đã làm việc tại thị trường mĩ trong 12 năm. Từ vị trí quan trọng của ông tại mĩ, ông đã có thể quan sát seiko từ một góc độ quốc tế khác, chứ không phải từ cái nhìn hạn hẹp hơn ở nơi các đồng nghiệp của ông, những người có trụ sở tại nhật bản. Trong một khoảng thời gian ông cũng đã đóng vai trò là một nhà cung cấp ý kiến cho seiko corporation , giúp các công ti tại nhật cùng giám đốc của seiko hiểu rõ hơn về cái cách seiko được nhìn nhận tại nước ngoài.
SWC quản lí một danh mục các thương hiệu với seiko là cốt lõi trong đó. Mỗi nhóm sản phẩm đều tập trung vào sứ mệnh riêng biệt của nó, thành công của seiko là một phần đến từ các quyết định. Vào những năm 1980, để bảo vệ giá trị của seiko, người ta đã bổ sung vào các thương hiệu là pulsar, lorus và alba đẻ có thể vươn tay ở các cấp độ khác nhau trên thị trường. Gần đây nhất, thương hiệu đồng hồ khác như Agnes B và Mandarina Duck đã được sản xuất và bán bởi sự cấp phép của SWC. Trước khi SWC được thành lập, các thủ trưởng trong đội ngũ giám sát đã có phần trách nhiệm trong việc quản lí công ti. Tại thời điểm đó họ đã không thể chú ý quán xuyến hết đến viêc kinh doanh đồng hồ. Một trong những thay đổi cơ bản từ việc tạo ra SWC là từ bây giờ, họ có thể tập trung hết sức vào seiko cũng như các thương hiệu liên quan.
MỘT TẦM NHÌN RÕ RÀNG
Một số hoạt động đầu tiên của ban lãnh đạo mới ảnh hưởng từ phong cách quản lí kiểu mĩ của ông mitome, chúng gợi nhớ tới phương pháp quản lí mà người mĩ đã áp dụng. Nhiệm vụ đầu tiên là đánh giá lại, tại sao doanh nghiệp lại bị chững lại trong khoảng thời gian 10-15 năm và xác định hướng đi mới cho công ti bằng cách tạo ra một tầm nhìn rõ ràng về tương lai, và có một tuyên bố rõ ràng về sứ mệnh. Có 2 tuyên bố, một cho nhiệm vụ thị trường trong nước, và một tuyên bố dành cho phần còn lại của thế giới. Điều này là rất cần thiết vì những đặc điểm rất khác nhau của mỗi thị trường. Kể từ khi kintaro hattori bắt đầu với công ti của mình vào năm 1881, nhận thức của seiko đã phát triển theo những cách khác nhau từ thị trường trong nước đến hoat động xuất khẩu. Tại thị trường nước nhật, seiko bán ra các sản phẩm tầm trung với giá từ 150 đến 600 usd nhưng đồng thời cũng lưu ý tới các sản phẩm cao cấp đắt tiền. Các bộ sưu tập grand seiko và credor phục vụ cho mục tiêu cao cấp ở thị trường trong nước, grand seiko là dòng sản phẩm cao cấp dành cho những người sành chơi,còn Credor dành cho thị trường sang trọng với những sản phẩm làm từ vàng và bạch kim , một số mẫu được làm với kim cương và các loại đá quý khác, và có giá hơn 10.000 usd.
Tại các thị trường quốc tế, các nhà bán lẻ đều cho rằng, tài sản lớn nhất của seiko nằm ở giá trị ở tên sản phẩm, cũng như chất lượng tương xứng với số tiền bỏ ra. Hàng triệu khách hàng hài lòng trên toàn thế giới cũng đại diện cho niềm tin vào những giá trị vô giá. Những vị khách từ quốc tế thường đánh giá rằng các sản phẩm của seiko thật sự không hề tốn kém khi so sánh với các sản phẩm đến từ thuỵ sĩ có chất lượng tương tự. Nhận thức này giống như một con dao hai lưỡi. Có một thực tế là seiko rất coi trọng giá trị của đồng tiền ( lợi nhuận) , nhưng cái mức giá trung bình thấp mà khách hàng ở thị trường ngoài nhật bản mong đợi để trả cho sản phẩm của seiko là một bất lợi lớn, nó đã chứng tỏ là một trở ngại khó khăn cho công ti mà trong nhiều năm đã có kinh nghiệm trong việc sản xuất đồng hồ cao cấp và trung bình .
Bởi vậy, ngài mitome xác định nhu cầu tập trung mạnh mẽ hơn cho thương hiệu seiko, nó có thể được hiểu theo những cách khác nhau ở trong và ngoài nước nhật bản ở một mức độ nào đó. Nhưng nó cần phải được xác định rõ ràng hơn trong cả hai. Trong nhiều năm qua, tài sản lớn nhất của công ti là sự nhận thức về thương hiệu . Năm 2001, khi ông mitome xem xét kế hoạch cho tương lai của tập đoàn seiko watch mới thành lập, ông nhận ra rằng nó chưa đủ để làm cho seiko nổi tiếng và nó cần sức mạnh để đứng vững. Ông tin rằng có quá nhiều nhận thức khác nhau về seiko. Một số người nhìn vào seiko như những chiếc đồng hồ giá rẻ, một số người khác thì cho rằng nó là một chiếc đồng hồ chất lượng cao. Một số người cho rằng seiko đem lại công nghệ và chất lượng tốt, trong khi ở một số người khác lại lưu tâm đến thiết kế độc đáo và mạnh mẽ của seiko, họ thậm chí còn liên kết seiko với thiết kế công nghiệp cho toàn nước nhật bản.
NHẬN DIỆN THƯƠNG HIỆU
Trong tương lai, ông mitome tin rằng điều quan trọng là seiko sẽ phải thiết lập nên một thương hiệu rõ ràng, đây là lí do tại sao một trong những hành động đầu tiên của tổng công ti seiko watch đó là nghiên cứu các vấn đề về nhận diện thương hiệu. Ưu tiên hàng đầu là tạo ra một bản sắc thương hiệu được kết hợp chặt chẽ bởi phát triển sản phẩm, bán hàng và quảng cáo , cũng như chính sách phân phối và định giá. Một trương trình được áp dụng chung cho mỗi thương hiệu phụ trong tập đoàn, như pulsar, lorus và alba.” Trong quá khứ, chúng ta có thể nắm bắt mọi cơ hội để đạt được doanh số bán hàng, bất cứ khi nào cơ hội xuất hiện ở các mức giá khác nhau”. Theo lời ông mitome trong một cuộc phỏng vấn vào năm 2002 thì ” những những ngày đó đã qua rồi , seiko sẽ tạo ra một sự phân chia rõ ràng hơn để giúp chúng tôi tập trung vào sự đổi mới và tinh tế “. Tiếp tục quá trình đã bắt đầu từ những năm 1990.
“làm sao chúng ta lại có thể để hình ảnh thương hiệu seiko bị mất đi trong khâu phân phối khi nhắc đến tầm quan trọng của sự tinh tế ?” Ông ấy hỏi : ” khi đã nhắc tới một nền văn hoá có định hướng tăng trưởng hoặc định hướng thị trường, chúng tôi chỉ muốn bán hàng và tăng trưởng. Chúng tôi có xu hướng bỏ mặc thương hiệu seiko cho người tiêu dùng . Với SWC mới này, bây giờ chúng tôi sẽ trở lại nơi chúng tôi đã bắt đầu “