TÌM HIỂU VỀ GRAND SEIKO ( PHẦN 1)

Đối với nhiều người, Grand Seiko là một thương hiệu tương đối mới mẻ, tuy nhiên Grand seiko đã tồn tại từ năm 1960 , nhưng sản phẩm này chỉ có mặt trên thị trường nội địa nhật bản. Năm 2010, trong một cuộc họp báo thường niên tổ chức vào ngày khai mạc hội chợ basel, công ti seiko watch đã thông báo họ sẽ đưa dòng sản phẩm grand seiko ra thị trường quốc tế. Và chỉ trong 6 năm sau khi tung ra toàn cầu, grand seiko đã đạt đươc một sự công nhận từ các nhà sưu tập đồng hồ trên khắp thế giới. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều ít ai tường tận về những câu chuyện tuyệt vời, khái niệm và triết lí đằng sau mỗi chiếc đồng hồ Grand seiko. Mục tiêu của loạt bài này gồm có nhiều phần, nhằm giúp cho những người mới biết đến grand seiko hiểu hơn về sản phẩm này, cũng như cung cấp thêm những thông tin mà có lẽ ngay cả những người hiểu biết về nó cũng không tường tận hết.
SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ 
Lịch sử của seiko bắt đầu vào năm 1881, khởi nguyên từ ông kintaro hattori một chủ cửa hàng sửa chữa đồng hồ ở quận ginza của tokyo. Công ti được biết đến với cái tên K.Hattori & Co.LTD. Tám năm trước khi hattori thành lập cửa hàng của mình, Nhật bản thường sử dụng mặt trời như một cách chính thống để theo dõi thời gian. Trước năm 1873, Nhật Bản sử dụng đồng hồ treo tường có tên là Wadokei, dựa trên hệ thống âm lịch tương đối rối rắm phức tạp. Điều này đem đến thuận lợi cho hattori vì có rất ít người hiểu biết về hệ thống cơ khí phức tạp như thế này như ông, tại thời điểm ông bắt đầu làm việc vào năm 1877. Kintaro tập trung mọi sức lực của mình vào việc xây dựng công ti, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, với phương thức in-house toàn bộ mọi công đoạn. Từ việc chế tạo đồng hồ treo tường, đồng hồ bỏ túi vào năm 1895, rồi đến đồng hồ đeo tay vào năm 1913 với nhãn hiệu Laurel, cuối cùng thì ông cũng đã đạt đươc mục đích ban đầu của mình trong việc chế tác đồng hồ, đó là tự lực chế tạo hoàn toàn mọi công đoạn. Năm 1924, nhãn hiệu seiko chính thức xuất hiện trên đồng hồ đeo tay. Seikosha, cái tên này đã được sử dụng nhiều năm cho các sản phẩm đồng hồ bỏ túi và ” không phải vội vàng hay nghỉ ngơi, luôn luôn chậm môt bước so với những người khác, không phải hai hoặc ba bước, đi quá nhiều bước về phía trước sẽ làm bạn xa rời khỏi đám đông quần chúng “. Câu trích dẫn này của hattori đã tạo cảm hứng cho nhiều người, và đã đưa công ti đi đầu trong viêc sản xuất đồng hồ ở thập niên 30,40 và 50 ( ở nhật) . Các sản phẩm được tạo ra từ Seikosha như đồng hồ bỏ túi, đã trở thành dụng cụ bấm giờ chính thức cho đường sắt quốc gia Nhật Bản , cũng như những chiếc đồng hồ seiko Marvel được đánh giá rất cao.
Việc theo đuổi triết lí hoàn hảo của họ đươc đẩy mạnh hơn vào cuối những năm 1950, gây ra sự cạnh tranh nôi bộ gay gắt giữa 2 nhà máy khác nhau tại seikosha. Sau đó, nhờ những tiến triển trong kĩ thuât chế tác, Grand seiko được ra mắt vào năm 1960 , có mã là 3180. Phiên bản đầu tiên này là môt chiếc đồng hồ 3 kim đơn giản, có nhiều biết thể, có thiết kế hoàn toàn giống nhau. Hầu hết được biết đến với phiên bản bọc vàng, ngoài ra cũng có những bản được làm từ thép và bạch kim. Điều bạn nhìn thấy đầu tiên trên mặt số của chiếc đồng hồ này đó là dòng chữ “chronometer”, dòng chữ này là một chứng nhận rằng sản phẩm đã đáp ứng đầy đủ tất cả các tiêu chuẩn chronometer thời đó. Không chỉ đạt được, mà thậm chí họ còn vượt qua cả tiêu chuẩn đó. Triết lí của grand seiko thời đó là sản xuất ra những chiếc đồng hồ hữu ích, thiết thực nhất trên thế giới ( ám chỉ sự thực dụng) . Thiết kế của chiếc đồng hồ này cũng là loại thiết kế mới hoàn toàn, được phát triển bởi ngài taro Tanaka, người từng là nhà giảng dạy về thiết kế đầu tiên của seiko , vào năm 1959.
Sự phát triển của grand seiko được tiếp tục vào năm 1967 với việc phát hành chiếc 62GS., chiếc đồng hồ cơ tự đông đầu tiên của dòng grand seiko, cũng như chiếc 44GS, chiếc này được sản xuất bởi một nhà máy có tên là Daini Seikosha Kameido. Thiết kế của chiếc 44GS cũng là từ Taro Tanaka mà ra, ông cũng là người đóng vai trò rất quan trọng định hình nên thiết kế tổng thể của Grand seiko. triết lí trong thiết kế dòng grand seiko, được xác định từ đó và còn tồn tại cho tới ngày hôm nay, nó được biết đến với cái tên “grand Seiko’s Grammar of design”, sử dụng các mặt phẳng , các đường cắt nét sắc bén để để có thể nổi bật trong cả ánh sáng lẫn bóng tối. ( nguyên bản là có thể chơi được với cả ánh sáng và bóng tối – nghĩa là nổi bât ở bất cứ đâu). Năm 1968 là một thời điểm quan trọng trong lịch sử grand Seiko. , với sự phát triển của ba sản phẩm đầu tiên của dòng Hi-Beat (36.000 bph), không chỉ có 3 kiểu dáng khác nhau mà còn có 3 movement khác nhau. ( 45GS lên dây , 61GS tự động và 19GS cho các chị em phụ nữ.) . Vào năm 1970, seiko cho ra mắt mẫu Hi-beat tự động mã 56GS, việc sử dụng cỗ máy hi-Beat đã cải thiện tính chính xác và tăng sự ổn định của sản phẩm, giảm bớt các tác động từ những cú sốc và vị trí đặt đồng hồ. Nhìn chung, hiệu suất của dòng sản phẩm grand seiko đã được nâng cao lên rất nhiều .
Mặc dù đã đạt được chỉ tiêu do chính mình đề ra, cũng như các tiêu chí  của chronometer, seiko cảm thấy vẫn chưa hài lòng. Thời điểm này (1969) cũng chứng kiến sự phát triển của dòng đồng hồ quartz của seiko, gọi là VFA ( viết tắt của very fine Adjustment) môt trong những chiếc đồng hồ chính xác nhất trong thời đại của nó, vượt quá cả tiêu chuẩn của Grand seiko. Seiko đã đem sản phẩm của mình tham gia vào các cuộc thi tại thuỵ sĩ, có tên là Observatory chronometer từ 1963-1967 diễn ra ở neuchatel, dù các sản phẩm đem đến dự thi không có chỉ số chính xác cao bằng các model VFA sau này , nhưng seiko vẫn giành vị trí số 2 và số 3 vào năm 1967. Cuộc thi này sau đó bị dẹp vào năm 1968 ( do seiko – đánh bại quá nhiều hãng tên tuổi của thuỵ sĩ, cái này hôm sau sẽ có bài riêng) , seiko lại tiếp tục đem sản phẩm tới cuộc thi geneva Observatory Trails, các movement của seiko trải dài từ giải 4 đến giải 10, và cuối cùng được trao giải tổng thể tốt nhất cho đồng hồ đeo tay chuẩn chronometer tại Geneva ( việt nam gọi là nhất toàn đoàn) . Máy 45GS được sử dụng trong các cuộc thi chronometer, là một trong những máy tốt nhất vào thời điểm đó ( còn là máy sản xuất đại trà mới gấu) môt chiếc đồng hồ seiko hiếm hoi đã đươc đệ trình và đươc chấp thuận tại đài quan sát thiên văn neuchatel thuỵ sĩ, với danh hiệu ” Astronomical Observatory Chronometer Officially Certified ” in trên mặt số đồng hồ , model này không có gán thương hiệu Grand seiko, nhưng cỗ máy bên trong lại chính là 45GS!
Sau khi ra mắt chiếc đồng hồ thạch anh đầu tiên trên thế giới vào 25-12 -1969, và cuộc cách mạng thạch anh ( đối với thuỵ sĩ gọi là khủng hoảng thạch anh) vào những năm 70, seiko đã dồn mọi nguồn lực và nỗ lực cho việc sản xuất đồng hồ thạch anh ( quartz), đồng thời vẫn tiếp tục phát triển các dòng máy cơ khí mới vào những năm của thập niên 70-80. Năm 1988, chiếc Grand seiko mới ra mắt với movement thạch anh, độ chính xác rất cao +-10 giây một năm, có tên mã là 95GS, đây là lần đầu tiên một movement thạch anh được sử dụng trong Grand seiko. 95GS là một movement xuất sắc, nhưng seiko vẫn tiếp tục đổi mới nâng cấp và thành công rực rỡ với máy calibre 9F ở thời điểm hiện tại, được áp dụng từ năm 1993.
Mặc dù các cuộc thi thố diễn ra chủ yếu ở thuỵ sĩ, nhưng sự cạnh tranh mạnh nhất, ác liêt nhất lại xảy ra trong chính nội bộ của công ti seiko . Có hai nhà máy tham gia vào việc sản xuất Grand seiko ( và cả king seiko) . Nằm trên các ngọn núi trung tâm của Nhật bản, 3 tiếng đi về phía tây tokyo bằng tàu hoả, chính là Shiojiri, trụ sở của seiko Epson, nơi này thiết kế, sản xuất và lắp ráp đồng hồ thạch anh 9R spring Drrive và 9F. Shiojiri nằm ở quận Nagano, đã từng tổ chức thế vận hội mùa đông vào năm 1988. ba giờ đi về phía bắc tokyo bởi tàu chở dầu Shinkansen, là một thành phố miền núi xin đẹp của Morioka, nơi SII ( seiko instruments Inc) thiết kế, sản xuất và lắp ráp các movement Hi-beat, 9S cơ khí. tiền thân của Hai bộ phận này có trước khi Grand seiko ra đời , đó chính là daini seikosha và suwa seikosha. Nhà máy daini seikosha Kameido ( nghĩa là seikosha số 2) ở tokyo được thành lập vào năm 1937 , còn Suwa seikosha ( gọi tắt là Suwa) được thành lập vào cuối năm 1943, trong một nỗ lực của seiko nhằm thoát khỏi các vụ đánh bom của phe đồng minh vào tokyo thời điểm cuối thế chiến 2 ( thực ra, đến tận 1959 nhà máy Suwa sáp nhập với một đối tác có tên là Daiwa Kogyo thì mới chính thức thành lập Suwa seikosha Co). Nhà máy daini kameido bị phá hủy trong một trận đánh bom vào năm 1945, và đươc xây dựng lại ngay sau đó. Sự ganh đua giữa 2 nhà máy này bao gồm việc tạo ra những chiếc đồng hồ mới như marvel, Cronos và Crown để tạo ra sự vượt trội về hiệu suất cũng như kích cỡ. Cả hai nhà máy đều tâp trung làm đồng hồ đeo tay.
Như đã đề cập trước đó, nhà máy daini Kameido không sản xuất Grand seiko cho đến năm 1967 , đơn giản là đang làm king seiko để cạnh tranh với GS. Phía bên kia, Suwa chiu trách nhiệm hoàn toàn trong việc sản xuất GS cho tới năm 1967.cho đến khi daini Kameido giới thiệu 44GS. Nhà máy Kameido cuối cùng trở thành SII và chuyển cơ sở đến Morioka, Suwa seiko trở thành một bộ phận của seiko epson và vẫn nằm trong thành phố shiojiri. Mỗi nhà máy đều có đặc sản cũng như sự độc đáo của riêng họ. Như đã đề câp ở trên, đồng hồ cơ khí toàn phần là trọng tâm chính tại morioka, trong khi Spring drive và quartz được sản xuất tại shiojiri. Mỗi nhà máy sản xuất các bộ phận riêng của mình và hoàn toàn độc lập với nhau. Mỗi địa điểm lại có một sutudio đặc biệt dành riêng cho các sản phẩm cao cấp của họ. Ở morioka, nhà máy SII, họ có phòng studio Shizuku-ishi, nơi có một số rất ít thợ thủ công nam nữ làm công viêc lắp ráp , thử nghiệm và test phần thân vỏ. Trong phòng này, các movement như 9S6x, 9S8x Hi-beat, credor caliber 68xx và 8L movement đều được lắp ráp và thử nghiệm. Các bộ phận như dây tóc, sợi nhân tạo, MEMS( micro electro machanical system) , và nhiều thứ khác nữa. Còn tại shiojiri ở seiko epson, có 2 studio nằm trong cơ sở sản xuất Grand seiko. Gồm có studio Shinshu takumi làm ra máy 5R,7R và 9R spring drive calibers cũng như 9F ( thạch anh) . Làm việc cùng với studio takumi là Micro artist Studio, một nơi rất nổi tiếng với việc sản xuất ra các phiên bản spring drive Sonnerie, Minute repeater và Eichi ( credor) , hiện nay đang chịu trách nhiệm cho việc phát hành bản grand seiko 8 day. Đây là sản phẩm grand seiko đầu tiên và duy nhất được thực hiện bởi micro studio ở thời điểm này ( 2016). Những cỗ máy được làm ra tại epson, mọi bộ phận từ cầu, bánh răng và ngay cả tinh thể thạch anh đều được sản xuất inhouse.
( Hết phần 1)

3.5/5 - (2 bình chọn)