LỊCH SỬ NỀN CÔNG NGHIỆP ĐỒNG HỒ LIÊN BANG XÔ VIẾT (PHẦN 2)

Chiếc đồng hồ đầu tiên

Vào ngày 7-11, 50 chiếc đồng hồ bỏ túi đầu tiên đã được đặt hàng. Những chiếc đồng hồ này đã được giới thiệu tại một buổi họp nghi thức tại nhà hát cách mạng. Nay gọi là nhà hát Bolshoi. Cơ quan đã đăt hàng những chiếc đồng hồ này hiện nay không có tài liệu nào để xác thực, nhưng gần như chắc chắn là hội đồng lao động và quốc phòng liên sô. Hoặc hội đồng kinh tế tối cao. Từ năm 1932, các uỷ ban và các viện của nó đã nhận lãnh trách nhiệm quản lí trực tiếp. Bao gồm :
* НКТП: 1932-1936 uỷ ban công nghiệp nặng nhân dân
* HKM : 1936-1938 : uỷ ban kĩ thuật
* HKOM : 1938-1940 : uỷ ban nhân dân về kĩ thuật tổng hợp
* NIIP, NII-5 & NIIChasprom : từ 1940 trở đi
Theo niichasprom.ru, các viện này được thành lập theo lệnh của uỷ ban nhân dân về kĩ thuật tổng hợp, vào tháng 9 năm 1940 dưới dạng viên nghiên cứu dụng cụ NIIP, sau đó là vào tháng 12 năm 1943 theo lệnh số 459 của bộ dân uỷ vũ khí của liên bang sô viết , viện nghiên cứu ban chỉ đạo số 5 của uỷ ban số 5 về vũ khí ( viết tắt là NII5). Các viện này được giao toàn quyền về các vấn đề kĩ thuật thuộc lĩnh vực đồng hồ. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, việc nghiên cứu vẫn tiếp tục hoạt động và thực hiện theo mệnh lệnh từ nhà nước, phục vụ cho các mục đích về quân sự. Sau này được chuyển đổi thành viện theo dõi và nghiên cứu công nghiệp ( viết tắt là NIIChasprom).
Thiết kế đồng hồ ban đầu được chọn có tên là Type-1 (K43), nó dựa trên movement Hampden Size 16. Ngoài ra còn có các loại 2,3&4 cũng dựa trên thiết kế của Hampden. Tuy nhiên những chiếc đồng hồ này chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian rất ngắn và không được sản xuất với số lượng lớn. Chúng ta cần xem xét công nhận rằng những chiếc type-1 (2,3&4) này là những chiếc được chế tạo từ các bộ phận sản xuất ở liên sô, trông chúng có vẻ bề ngoài chẳng khác gì với những chiếc đồng hồ tochmekh thời trước năm 1930.
Về các kí hiệu, lời giải thích hợp lí nhất mà tôi được nghe đến từ một người thuộc NAWCC, Wojtek nói với tôi : type -1 và K43. Type -1 là kí hiệu ám chỉ kiểu dáng và movement gán cho môt mẫu đồng hồ. Còn K43 là tên gọi hoàn chỉnh của chiếc đồng hồ, trong đó K là chữ viết tắt của có nghĩa là “kарманные”-“pocket” trong tiếng anh ( pocket watch – đồng hồ bỏ túi) , 43 ám chỉ kích thước mặt đồng hồ 43mm. Những chiếc đồng hồ đeo tay Saucepan cũng được gọi là k-43. Ngoài ra, tôi còn được alexey kobtsev giải thích rằng, tất cả các movement trong đồng hồ bỏ túi của liên sô nói chung có tên là ChK-6 ( còn đươc gọi là ЧК-6 hoặc YK-6 hoặc Cheka 6 hoặc pocket-watch 6 ). Điều này bao gồm cả các mô hình dựa trên movement của hãng Lip như nhà máy Molnija.
Tên gọi type-1 dành cho đồng hồ đeo tay hoặc bỏ túi, thường gọi với cái tên khác là Kirovskie’s. Tuy nhiên, nói chuẩn ra thì cái tên này chỉ nên được sử dụng để miêu tả những chiếc đồng hồ được thực hiện sau năm 1935 tại 1GCHZ kirov. Nhiều model sản xuất cho chiến tranh cũng đã được thực hiên tại nhà máy đồng hồ quốc gia số một này, giống như Probeda, cũng được gọi chung là Kirovskie’s. Có một số thông tin từ trang web hãng đồng hồ Lip ( một hãng đồng hồ của nước Pháp) cho thấy hãng này đã hợp tác sản xuất đồng hồ với liên sô. Nhưng phải đến năm 1936, khi Lip gặp vấn đề về tài chính tại Pháp, thì giám đốc phụ trách kĩ thuât của lip là fred lipmann mới bắt đầu kí một thoả thuận với liên sô để xuất khẩu công nghệ và các bộ phận. Mốc thời gian ở thời điểm sáu năm sau khi nhà máy đồng hồ quốc gia số 1 bắt đầu sản xuất ra đồng hồ type-1. Thiết kế hiện đại đến từ Lip đã làm nổi bật những thiếu sót về mặt công nghệ từ những chiếc đồng hồ Hampden. Tuy nhiên type-1 là chiếc đồng hồ đầu tiên sản xuất tại liên sô, mô phỏng trên một movement có tên là Hampden Size 16, với kiểu bố trí cầu đôi đăc biệt ( twin-bridge – thực tế nó là môt miếng thép ở movement có rãnh sâu ở giữa khiến người ta lầm tưởng nó là 2 mảnh rời) có ưu điểm là rất bền bỉ, dễ sửa chữa và rất đáng tin cậy. Việc sản xuất type -1 kéo dài cho mãi đến những năm 1980 , dưới nhiều nhãn hiệu khác nhau.
Quyết định mua lại các công nghệ cũ của bodrov cũng là quyết định của ban lãnh đạo liên sô, các tài liệu tìm thấy trong di chúc của ông đã được tập hợp trong một báo cáo từ giữa thập niên 1930 đã minh chứng cho điều này. Với việc giới thiệu những chiếc đồng hồ tinh vi hơn ( của Lip), liên sô đã cố gắng tuyển mộ thêm hàng trăm thợ lành nghề từ thuỵ sỹ và các nhà sản xuất đồng hồ phương tây khác , đơn giản là vì họ có quá ít công nhân lành nghề trong các nhà máy. Nhiều người trong số tuyển dụng này có tư tưởng chống đối chính quốc, hay theo chủ nghĩa xã hội lí tưởng. Tuy nhiên, kế hoạch này nói chung thất bại, lí do thứ nhất là do chính quyền thuỵ sĩ đã siết chặt việc di cư, thứ hai là do liên sô đã không thể thực hiện lời hứa về một viễn cảnh tươi sáng, khiến cho cuộc sống thực tế của công nhân cũng như gia đình đi theo họ trở nên khắc nghiệt. Trong thời kì đầu của thế chiến 2, đại đa số đã bỏ đi, bỏ lại tất cả tài sản và tiền bị tịch thu ở biên giới. pruss là đạo diễn chính trong chính sách tuyển dụng này, vì ông là một trong số ít người Nga có mối quan hệ tốt với Thuy sĩ. Ông vẫn luôn tin rằng phương pháp tiếp cận công nghệ sản xuất đồng hồ bỏ túi là một sai lầm. Cuối cùng thì mọi nỗ lực của ông đã thất bại, và vì mối quan hệ thân thiết của ông với người nước ngoài đã góp phần khiến ông phải đối mặt với cáo buộc hoạt động gián điệp.
Những chiếc đồng hồ ” đô la ” bị từ chối tại liên sô
( the dollar watch, hay còn gọi là 1 dollar watch, những chiếc đồng hồ giá rẻ trên dưới 1 đô la do người mĩ khởi xướng sản xuất)
 
Trong những năm đầu thế kỉ 20, những chiếc đồng hồ 1 đô la rất phổ biến tai nước Mĩ , và biến nó thành những chiếc đồng hồ phổ thông mà ai cũng có thể mua được. Một movement cơ bản thường được sản xuất và lắp trong những chiếc đồng hồ này có tên là pin-pallet, được làm ra bởi công ti Ansonia với mức giá rất hơp lí cho người sô viết thông qua các model đồng hồ của hãng. Năm 1957, một phái đoàn người anh đến thăm các nhà máy sản xuất đồng hồ tai moscow và Penza, họ phát hiện ra rằng movement pin-pallet vẫn chưa được sản xuất tại nơi đây ( liên sô đã mua lại ansonia nhưng lại ko sản xuất pin-pallet), một thời gian trước đó, họ đã báo cáo lại các mẫu đồng hồ chạy pin-pallet đã được đưa vào thị trường sô viết nhưng không thành công, và dường như người ta sẽ không bao giờ bán nó, kể cả khi người dân quốc gia này thiếu thốn và ” đói” đồng hồ! tôi nghĩ rằng thuật ngữ không bán đã bị diễn giải và hiểu sai vì thực tế nó đã được bán . Romanov nói với chúng tôi : Amtorg đã đàm phán một hợp đồng liên quan đến đồng hồ , cụ thể là liên sô sẽ mua vào 200 ngàn chiếc đồng hồ rẻ tiền dollar watch, đổi lại liên sô sẽ được đào tạo 200 kĩ sư và kĩ thuật viên. 20 ngàn chiếc đã được mua và đem tới thị trường liên sô, nhưng đánh giá chung về loai đồng hồ này rất tiêu cực, những chiếc đồng hồ 1 dolar này không chính xác và đã bị sửa chữa. Đất nước liên sô cần những chiếc đồng hồ đáng tin cậy cho một cuộc sống lâu dài, và với lí do đó, câu hỏi về việc phát triển những chiếc đồng hồ bỏ túi theo xu hướng “1 dolar” đã bị dẹp ra khỏi các chương trình nghị sự Ở liên sô.
Vài chi tiết về các movement khác nhau ở sô viết thời kì đầu
Những kĩ sư và nhà cải cách ở liên sô đã cố thiết lập quá trình đơn giản hoá viêc sản xuất. Ví dụ như họ đã phát hiện ra, để làm chiếc kim cho đồng hồ hampden cần đến 8 công đoạn riêng biệt, và họ đã giảm nó xuống còn một. Trong thực tế, có một số bằng chứng cho thấy sự đơn giản hoá này được tạo ra bởi một thợ máy lành nghề người Mĩ tên là Sam Weinberg. Ông đã theo chân các công nhân Ansonia đi từ New york sang và có đươc môt vị trí tại 1GCHZ, chỉ huy của ông này đã yêu cầu không được để lãng phí thời gian với các công cụ thiết kế, và ông ta đã chấp hành và cải tiến hiệu suất làm việc trong suốt thời kì làm ở 1GCHZ.
Hampden không thể tự lực sản suất ra mọi thành phần của một chiếc đồng hồ trong nhà máy của mình, điều này dẫn đến ảnh hưởng đến toàn bộ hoat động của 1GCHZ. Năm 1930, VO pruss được phái đến Lorrach, gần biên giới thuỵ sĩ ( ông không được phép vào thuỵ sĩ) , tại đây, ông đã gặp gỡ các nhà bán sỉ của thuỵ sĩ để đàm phán mua thiết bị cũng như vật tư cần thiết cho việc sản xuất đồng hồ tại moscow. Đặc biệt, giám đốc điều hành 1GCHZ là Vladimirsky đã yêu cầu ông phải mua thêm cả kim đồng hồ. Người thuỵ sĩ yêu cầu số tiền không thoả đáng, do đó pruss thông báo lại rằng ông sẽ không mua kim đồng hồ và nói với Vladimirsky hãy đẩy nhanh tốc đô sản xuất trong nước để tự túc. Tình huống này đặc biệt được nhấn mạnh trong các tài liệu thu thập được, quản lí của 1GCHZ nói rằng nếu không có nguyên liệu nhập khẩu thì các thành phẩm như kim, dây tóc và mainspring sẽ bị ngừng sản xuất.
Những khó khăn và cả những xung đột, căng thẳng trong nội bộ đã không bao giờ được công bố ra ngoài. Một cuốn sách xuất bản vào đầu những năm 30 nói về chiếc đồng hồ đầu tiên, MA Gershenzon ,một nhiếp ảnh gia đã được một tổ chức có tên là Proletarian World, là một nhà xuất bản đóng tại thủ đô moscow, gửi tới nhà máy 1GCHZ chụp hình nhân ngày kỉ niệm cùng với rất đông công nhân, và viết bài dành cho những người cả tin với phong cách viết trẻ trung. Nó đã được chọn để làm phần mô tả về nhà máy như mô tả về Gulliver’s Tales. Những bức ảnh được sử dụng để minh hoạ cho cuốn sách này khá đầy đủ, và nó thật sự rất có giá trị dù chất lượng ảnh không tốt lắm. Trước buổi họp tối hôm đó, đồng chí Rakov, người đứng đầu cục sáng chế thực vật, đã đến thăm nhà máy. Nhiếp ảnh gia gershenzon đã báo cáo những gì thấy được : phòng ốc hiện đại, rộng rãi, đầy đủ ánh sáng. Và anh có hơi ngạc nhiên bởi quy mô của nhà máy. Anh nói nó giống như ở trong vùng đất của Gulliver, những người công nhân lilliputian vận hành nhà máy lilliputian ( Gulliver ở đây là là một nhân vật giả tưởng trong tác phẩm tiểu thuyết, anh ta rất khổng lồ so với người lilliputian – ở đây muốn ám chỉ đến việc nhà máy đồng hồ rất rộng rãi, và người công nhân thì nhỏ bé và thoải mái lao động) . Rakov giải thích với anh, việc sản xuất đồng hồ là một ngành kinh doanh tinh tế, và đồng hồ bỏ túi gồm tới 300 loại mặt hàng khác nhau, và để làm ra được số đó, cần tới 2500 lao động, có một số chi tiết rất bé mà chúng ta cần phải làm việc với nó thông qua những thấu kính lớn. Ông đưa ra cho họ thấy một bánh xe cân bằng, Gershenzon nói nó bé chỉ như một hạt Carawayseed ( hạt carum, một loại hạt bé bọn tây hay dùng – sớt gu gồ để rõ thêm) các bánh răng đươc đặt lọt thỏm trên đầu ngón tay, trông nó giống như thuộc về một người khổng lồ nào đó ( ý là những thứ bé tí này có lẽ thuộc về một cái gì đó bự hơn nhiều) .
Vào cuối buổi chiều, các công nhân và kĩ sư của 1GCHZ tập trung tại câu lạc bộ xã hội, để tham dự một cuộc họp, thảo luận về những dự định của họ trong năm tiếp theo, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm lần đầu tiên. Chủ tịch uỷ ban nhà máy Sokova ( Salkova) chào đón những vị khách đến từ 2GCHZ( nhà máy đồng hồ quốc gia số 2),nhà máy 1GCHZ thời điểm đó ngoài các loại đồng hồ điện và bộ đếm thời gian khác, họ hiện đang sản xuất cả đồng hồ báo thức và đồng hồ để bàn bằng cách sử dụng các máy móc công cụ từ công ti Ansonia mua của Mĩ. ( công ti đồng hồ mĩ Ansonia được mua lại vào năm 1929 thông qua Amtorg, máy móc thiết bị được vận chuyển về liên sô) . Ông Sokava đã trình bày ngắn gọn về công việc của nhà máy và tiến trình sản xuất đồng hồ :” trước cách mạng, chúng tôi không có đồng hồ. Nga hoàng cũng đã phải nhập đồng hồ từ nước ngoài, chúng tôi đã tiến hành mua từ Mĩ hai nhà máy cũ là Dueber-hampden và Ansonia. Dueber-hampden là một nhà máy cũ, với trang thiết bị cũ kĩ, chúng tôi đã sử dụng số máy móc đó để làm ra các movement đồng hồ, có những bộ phận có thể làm được nhưng cũng có những bộ phận chưa thể làm được. Vào ngày ngày 1-10 năm 1930 ” ngày của chiếc búa ” ( ngày lao động) chúng tôi bắt đầu đi vào sản xuất năm đầu tiên . Chúng tôi đã không có đủ tài chính , chúng tôi đã làm ra được 42 ngàn chiếc đồng hồ. Máy móc thì hỏng hóc mà không có nơi để sửa chữa , nhân lực có tay nghề rất thiếu thốn, các quy tắc làm việc vẫn chưa được xây dựng đầy đủ, các quy tắc vẫn còn nhiều thiếu sót không đủ chi tiết. Còn năm thứ 2 thì sao? Chúng tôi giải quyết những bế tắc của mình, từng cái một. Bây giờ, chúng tôi có một cửa hàng sữa chữa tuyệt vời cho máy móc. Các trường dạy nghề của chúng tôi cung cấp những thanh thiếu niên được đào tạo tốt. Ba ngàn quy tắc làm việc đã có sẵn. Vào tháng 12 kế hoach của chúng tôi đã đạt 135%, những con số này, thưa các đồng chí, chính là bản nhạc dành cho nhà máy của chúng tôi! “
Gershenzon kể lại, sau đó Sokava đã thảo luận kế hoạch cho năm 1932, có một bất ngờ diễn ra vào năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm stalin. ” chúng tôi đã nhận được một đơn đặt hàng ( hình như “đơn hàng” này là tiếng lóng , ám chỉ việc khoán sản phẩm – ý là phải làm dc 60 ngàn chiếc trong năm 1932) , xuất phát từ sự tin tưởng, là sản xuất 60 ngàn đồng hồ trong năm 1932. Tuy nhiên, công nhân nhà máy lại lên kế hoạch đề xuất làm 70 ngàn chiếc chất lượng tốt! ” ( ý là làm vượt chỉ tiêu ‘ một phong cách đúng chất hình thức kiểu mẫu của thời kì đó)
Tôi đã cố gắng giản lược và đơn giản hoá nội dung bài viết. Để đi sâu vào chi tiết việc sản xuất đồng hồ và các phát kiến của giới công nhân. nhìn chung thì, tôi đã tìm ra mấy cuốn sách đầy ắp thông tin, nhưng không thể nào mà không hoài nghi về tính xác thực ‘ ví dụ như trích dẫn ở trên!

Để lại ý kiến của bạn cho người sau nhé!