*biên dịch bởi LÊ HOÀNG THẠCH*

CHƯƠNG 4 : CẠNH TRANH TRÊN CON ĐƯỜNG TỚI ĐỈNH CAO

seiko cuối cùng đã đạt được sự công nhận của quốc tế sau khi bước chân vào cuộc thi swiss observatory chronometer,  cuộc cạnh tranh diễn ra thành công với một số nhà máy sản xuất có trình độ xuất sắc nhất của thụy sĩ trên các lãnh vực sản xuất đồng hồ. Điều này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong vận may quốc tế của công ti,  và được công nhận trên toàn thế giới. 

SUWA SEIKOSHA – TỪ THỜI ĐIỂM THÀNH LẬP

và bây giờ,  seiko epi đang theo đuổi mục tiêu tìm kiếm đối tượng để phát triển một ” chiếc đồng hồ hoàn hảo”. Từ giữa năm 1950, họ đã đạt được sự thống trị tại các cuộc thi đấu trong nước. Bắt đầu từ 1948 với mục đích nâng cao chất lượng đồng hồ nhật bản. Viện kiểm định trọng lượng và đo lường trung ương nhật bản đã tiến hành kiểm tra chính xác mẫu của các công ti tham gia cuộc thi. Ban đầu, kết quả khiến người ta thất vọng.  Vì trong số 80 chiếc đồng hồ được gửi tới, thì đã có tới 62 chiếc bị loại. Điều này dẫn tới các công ti phải tiếp tục nỗ lực nâng cao tiêu chuẩn của họ,  kết quả là mức độ và chất lượng bắt đầu được cải thiện qua từng năm.

Khi seiko chuyển mẫu marvel cho viện đo lường vào năm 1956, nó đã rất thành công và gần như không có đối thủ trên thị trường nội địa. Đến cuối năm 1958, các mẫu marvel đã tràn ngập trong hội đồng chấm thi khi mọi thứ diễn ra từ đầu cho đến hết cuộc thi thứ 9 ở trong nội địa. Việc tham gia ở các cuộc thi này đã tạo ra động lực để nâng cao các tiêu chuẩn,  và seiko đã thành công vượt qua các thử thách.

Khi các cuộc thi trong nước chấm dứt vào năm 1960, nhiều người làm việc tại nhà máy suwa vẫn quyết tâm xây dựng một chiếc đồng hồ tốt nhất ,  và họ tự hỏi họ sẽ đi được tới đâu trong cuộc cạnh tranh với người thụy sĩ – theo lời của tsuneya nakamura.người đàn ông sau này sẽ trở thành chủ tịch của seiko epson và liên hệ mật thiết tới sự phát triển của dòng marvel cũng như grand seiko, và đồng hồ thạch. Cuộc thi tại các đài quan trắc thiên văn diễn ra hàng năm ở neuchatel có bao gồm các yếu tố quốc tế,  nhưng thực ra hiếm khi nó thu hút được sự tham gia của các quốc gia khác. Khi ông nghiên cứu các quy tắc của cuộc thi chronometer thụy sĩ, ông phát hiện ra rằng các nhà sản xuất nước ngoài được phép tham gia,  và ông được thông báo lại rằng các nhà tổ chức sẽ rất hoan nghênh làn sóng cạnh tranh đến từ nước nhật.

Công ti cho rằng sự cạnh tranh tại cuộc thi chronometer thụy sĩ sẽ cung cấp nền tảng hòan hảo,  cả cho việc theo đuổi sự chính xác cũng như quảng bá thương hiệu seiko ra thế giới. Năm 1963, nhà máy suwa seikosha của seiko đã trở thành đơn vị đồng hồ đầu tiên của nhật bản tham gia cuộc thi ở neuchatel.  Sản phẩm họ lựa chọn là chiếc đồng hồ thạch anh để bàn có tên là crystal chronometer,  được đưa vào danh mục chrometer hàng hải. Nó được trao giải đứng thứ 10.đây là một thành tựu đáng chú ý : chưa bao giờ có một nhà sản xuất nào ngoài thụy sĩ đạt được .

Vào năm sau đó,  seiko bắt đầu tham gia ở hạng mục đồng hồ đeo tay, nhưng kết quả rất thấp,  thứ hạng cao nhất mà các nhà máy đạt được là 144 cho suwa seikosha và 153 cho daini seikosha. Kết quả vớt vát duy nhất là 14 cỗ máy thạch anh đã vượt qua các bài kiểm tra độ trễ. Thất bại này khiến họ bớt ảo tưởng. Những kết quả đáng thất vọng đã kích thích tinh thần của seiko trong việc thiết kế và chế tạo đồng hồ. Việc theo đuổi cải thiện độ chính xác đã trở thành ưu tiên hàng đầu của các kĩ sư tại 2 nhà máy,  và bản thân họ cũng cạnh tranh lẫn nhau trong cuộc đua để đạt được sự tiến bộ.Theo từng năm,  kết quả từ seiko đã cải thiện dần.

Sự kiện trên đã trở thành một nỗi ám ảnh và các nhà máy đã có những nỗ lực phi thường để giải quyết vấn đề. Ví dụ như đề mục đầu tiên của daini seikosha trong thời kì thử nghiệm gặp hiện tượng bất ngờ : bộ phận dây tóc gặp vấn đề,  họ đã tìm ra để giải thích lí do thua cuộc.  Mặc dù gặp thất bại lớn ,  nhưng không có báo cáo nào tại thời điểm đó nói về đội thi đấu được chỉ định.  Trong những năm tiếp theo,  daini seikosha đã có thể sản xuất được đồng hồ kháng từ. Tuy nhiên để giảm thiểu rủi ro cho cuộc thi,  các kiện hàng của họ đã được gửi tới thụy sĩ từ các tuyến đường phía nam,  để tránh ảnh hưởng từ các vùng có từ trường mạnh nhất trái đất.

Họ cũng quyết định tạo ra càng nhiều thành phần càng tốt từ loại vật liệu permalloy, một loại hợp kim làm từ niken và sắt,  có khả năng giảm thiểu ảnh hưởng của các dòng điện triệt năng mạnh mẽ,  có thể ảnh hưởng xấu tới các bộ phận khi di chuyển trên máy bay. Từ trường đi qua vật liệu permalloy mà không làm ảnh hưởng tới nó. Loạt hợp kim này cũng được sử dụng trong các thùng chứa dùng để vận chuyển đồng hồ sang thụy sĩ.

Những chiếc đồng hồ đầu tiên đem ra thi đấu gần như là độc bản và nó không phải sản phẩm thương mại. Khi kĩ năng cạnh tranh được nâng cao,  một số tiến bộ đã đạt được thì seiko bắt đầu tung ra các sản phẩm sản xuất thương mại để đi thi. Việc này có sự tương đồng với các nhà chế tạo xe hơi ngày nay,  đôi khi các thiết kế mới và tính năng được thử nghiệm trong cuộc đua là tiền đề cho việc chấp nhận sản xuất thương mại. Khi seiko đua tranh tại cuộc thi chronometer,  việc sử dụng các cỗ máy có tần số dao động lớn đã giúp tạo ra những bước cải tiến đáng kể về độ chính xác. Sau đó, một số cỗ máy dao động tần số cao đã được bán ra công chúng , giúp mọi người nâng cao nhận thức về sự chính xác của đồng hồ seiko.

Vào cùng thời điểm người thụy sĩ đang tìm cách để áp dụng tần số dao động cao.  Các đội kĩ sư của seiko đã phá vỡ nền tảng mới,  họ thử nghiệm gấp từ 2-6 lần mức dao động bình thường. Một số đồng hồ cạnh tranh của họ sử dụng từ 15-20 nhịp. Trong phòng thí nghiệm,  thậm chí còn áp dụng với tốc độ lên tới 50 nhịp một giây. Đó là những cỗ máy cal 052, và họ cũng đã đưa ra được một số cải tiến được thiết kế có khả năng cung cấp sự hỗ trợ ổn định cho bộ phận cân bằng khi vận hành ở tần số cao. Các kĩ sư seiko đã đi đến kết luận rằng,  sử dụng cỗ máy nhanh hơn 10 nhịp mỗi giây chưa khả thi và 8 nhịp 1 giây là một giải pháp tốt hơn. Và ở thụy sĩ,  thật trùng hợp là họ cũng đi đến một kết luận tương tự.

Một thí nghiệm khác của seiko,  đó là bơm đầy khí hydro vào để loại bỏ khí oxi bên trong, tránh hiện tượng ô xi hóa có thể gây ra gỉ sét cho đồng hồ. Phương pháp này sau đó được áp dụng để sản xuất một số dòng sản phẩm VFA và grand seiko.

1.7/5 - (3 bình chọn)